Hồi Hương và Lương Thị được Miêu Bội Lan giúp đỡ mang bàn ghế rương thuốc vào nhà, sau đó nàng đi đỡ phụ nhân lại chui vào góc tường khóc thút thít kia dậy, nhỏ giọng an ủi, không biết nói gì nhưng mà nói nhiều lắm. Tả Thiếu Dương nhìn thấy mà ghen tỵ, nha đầu đó nói chuyện với mình tính ra chỉ được chục câu, chẳng lẽ mình chui vào góc nhà ngồi mới được nghe nàng nói?
Thời gian cứ thế trôi qua, mọi người ngồi yên tại chỗ như tượng, cả phụ nhân kia được Miêu Bội Lan khuyên nhủ không còn khóc nữa, trong nhà im phăng phắc, chẳng có náo nhiệt để xem, người tụ tập ngoài cửa buồn chán bỏ đi gần hết, chỉ có ai vô công rồi nghề lắm mới nán lại, ví dụ như vị Thái chưởng quầy, quát cả lão bà gọi mình về ăn cơm.
Những tia nắng cuối ngày đã tắt, bóng đêm buông xuống huyện Thạch Kính, âm thanh cuộc sống hàng ngày lắng dần, từng ô cửa sổ hắt ra ánh lửa vàng vọt, cột khói cao nối nhau truyền khắp thành. Sắp tới giờ gõ trống cầm canh, Hồi Hương châm đèn dầu, ngọn đèn leo lét chiếu lên từng khuôn lo âu, căng thẳng, hoặc ủ rũ.
Đột nhiên Lý Đại Tráng ngồi bên giường reo lên:” Mẹ, mẹ tỉnh rồi, mẹ ... Mẹ ta tỉnh rồi.”
Cả đám người đứng ngồi trong đại sảnh tức thì kéo nhau ùa tới, hô lên" lão tẩu" "đại thẩm" "cô cô", loạn hết cả lên.
Phụ nhân kia đã khóc sưng cả mắt, nghe vậy, vùng khỏi tay Miêu Bội Lan, chạy tới phủ phúc bên giường, kêu gào:” Mẹ, mẹ thấy sao rồi, mẹ! Tức phụ sai rồi, tức phụ bồi tội với mẹ.”
Rồi dập đầu bình bịch.
Khóe mắt lão phụ từ tử nhỏ ra một giọt nước mắt đục ngầu, theo nếp nhăn hằn sâu trên đuôi mắt chảy xuống.
Miêu Bội Lan cũng chùi nước mắt, lúc này Tả Thiếu Dương mới để ý nàng khóc từ bao giờ, có vẻ quan hệ giữa nàng và nhà Lý Đại Nương không tệ.
Gạt đám đông ra, Tả thiếu Dương đi tới bên giường, lão phụ đã mở mắt chầm chậm nhìn từng người một, đưa tay bắt mạch cho bà ta, báo:” Cha, lão nhân gia tỉnh rồi.”
“ Tỉnh rồi?” Tả Quý đâu có điếc, vừa rồi trong nhà ầm ĩ như vậy làm sao ông không biết, có điều kết quả này khó tin quá, ông lẩm bẩm một mình:” Tỉnh ... Tỉnh thật rồi à?”
“ Đúng ạ, cha, lão nhân gia hình như nhận được ra mọi người rồi.”
Mắt Tả Quý chưa bao giờ tròn như thế:” Hoàng kỳ ... Vậy mà lại có hiệu quả ngang nhân sâm sao?”
Ông ta tự nói quá nhỏ, chẳng ai nghe thấy, Hồi Hương không muốn cha mình nhận người bệnh, chẳng qua là trong nhà thực sự không có tiền bù tiền thuốc thôi, giờ có hiệu quả, trong lòng cũng vui lắm, cùng mẹ tới xem, thấy lão phụ vẫn nhìn quanh, nhưng không nói được, gọi:” Cha! Tỉnh thật rồi, cha tới xem sao đi.”
“ Ừ, đúng đúng, phải xem.” Tả Quý vội vàng tới, mấy hán tử vội nhường đường, ông ngồi xuống quan sát, nói:” Đại nương, lão hủ là lang trung trị bệnh cho bà, nếu bà nghe thấy ta nói thì hãy chớp mắt một cái.”
Lão phụ chớp mắt thật.
Cả phòng reo hò rầm trời làm hàng xóm lại kéo tới, đưa mặt nhìn nhau, thì thầm to nhỏ, hay thật đấy Tả lang trung lại cứu sống người sắp chết nữa rồi.
“ Lão Tả cứu được người ta rồi kìa.”
“ Thần kỳ, đúng là thần kỳ, bao năm qua chúng ta sống cạnh thần y mà không biết sao?”
“ Chắc thế, có thể là bệnh nhẹ không thể hiện được bản lĩnh của người ta, phải gặp bệnh nặng mới thể hiện được…”
“ Hẳn vậy rồi.”
Bên ngoài bàn tán cũng rất giữ ý không để ảnh hưởng tới việc cứu chữa bệnh nhân ở trong nhà, Tả Quý vẫn tiếp tục thăm dò tình trạng của người bệnh:” Đại nương, có nói được không?”
Lão phụ mở miệng, chỉ phát ra được tiếng ú ớ không rõ, Tả Quý giải thích cho người nhà Lý đại nương:” Đây là hiện tượng thường thấy khi trúng phong, phải từ từ điều dưỡng mới khôi phục lại như thường, không nhanh như vậy được, lão hủ hỏi chỉ để đánh giá mức độ nặng nhẹ của bệnh thôi. Tỉnh lại được là qua cơn nguy hiểm rồi …”
Lý Đại Tráng yên tâm hẳn rồi, tạ ơn rối rít:” Tả lang trung, phiền ngài kê thêm mấy đơn nữa để mẹ ta khỏi hẳn.”
Tả Quý ngẫm nghĩ: “ Lão nhân gia bị trúng phong, không phải dăm năm ngày mà khỏe, thời gian điều trị rất dài, khả năng là mười ngày cũng có thể là nửa tháng hay vài tháng, không nói chắc được, thuốc phải uống đều đặn lâu dài mới được.”
“ Vâng, vâng, lão tiên sinh cứ kê đơn đi ạ.” Lý Đại Tráng vội nói, trước đó tới các hiệu thuốc khác, người ta kê đơn ít cũng tới 4 lượng bạc, biết không trả được tiền mới thoái thác nói không chữa được, Quý Chi Đường chỉ dùng đơn thuốc có 12 đồng mà thấy hiệu quả ngay, đúng là gặp được quý nhân:
Hán tử đi cùng đều là họ hàng thân thích, bọn họ cùng nhau tụ một chỗ mang hết tiền trong người ra, nhưng chỉ được 9 đồng. Miêu Bội Lan cũng lấy túi tiền của mình đóng góp, trong đó có 8 đồng, là tiền bán củi của nàng.
Một thanh niên tuổi trạc hai mươi, trông khá khôi ngô cường tráng, nhận lấy tiền, nhìn Miêu Bội Lan gật đầu:” Bội Lan muội, cám ơn muội, đợi có tiền ta trả muội ngay.”
"Bội Lan muội" gọi thân thiết thế? Tả Thiếu Dương tai thính nghe thấy ngay, thằng cha này là ai vậy? Trông tuổi tác chắc là lão tam của nhà này, Miêu Bội Lan đáp lại bằng nụ cười thường thấy không nói gì cả, lùi sang bên.
Lý Đại Tráng cầm 17 đồng tới, ngại ngùng ấp úng một lúc mới nói lên lời:” Lão tiên sinh, chúng tôi góp tiền lại mới có được chừng này, không đủ hai thang thuốc, không biết lão tiên sinh có thể cho thuốc trước, chúng tôi về lấy tiền, nhất định trả đầy đủ. Chúng tôi biết, tiền thuốc này đã khiến quý đường bị lỗ rồi, đã nợ ơn đức lớn của ngài, không dám thiếu nợ, có tiền là trả ngay.”
Mỗi người mỗi tính, có người trải qua khó khăn thì trở nên khắc nghiệt tính toán, người thì lại thông cảm hơn với người đồng cảnh ngộ, Tả Quý vuốt râu chính là kiểu người sau:” Được, thế này, ta kê cho hai liều thuốc, uống hai ngày, ngươi đưa lão nhân gia tới khám, lão hủ sẽ căn cứ vào tình hình để điều chỉnh thuốc.”
“ Đa tạ, đa tạ lão tiên sinh.” Lý Đại Tráng đặt 17 đồng lên bàn, lùi lại vái lậy:” Ân đức của lão tiên sinh, cả đời vãn bối không quên.”
Tả Quý kê đơn, đưa cho Tả Thiếu Dương:” Trung Nhi, dựa vào đơn này bốc thêm hai liều nữa cho họ mang về dùng.”
Sử dụng phím mũi tên (hoặc A / D) để trở về chapter trước hoặc tới chapter tiếp theo